-
-
-
Tổng tiền thanh toán:
-
(P7) Phương pháp luyện tập đàn piano - Nguyên lý và nguyên tắc nền tảng
Đăng bởi Admin Harmony
Thứ Wed,
07/07/2021
12. Học, Thuộc lòng, và Chơi Trong đầu/tưởng tượng ( Mental Play)
Không có cách học thuộc nào nhanh hơn là cách học thuộc khi bạn vừa khởi tập một tác phẩm và, đối với một tác phẩm khó, thì không có cách nào nhanh hơn để học nó cho bằng cách là cách học thuộc nó. Hãy khởi đầu sự học thuộc bằng cách học cách bản nhạc đó nên nghe thế nào: giai điệu, tiết tấu,vv. Kế, sử dụng tổng phổ (bản nhạc in) để xác định phím nào trên piano cho từng nốt trên bản phổ; đây gọi là trí nhớ bàn phím [keyboard memory- lối học thuộc [bằng] bàn phím] – bạn học thuộc cách bạn chơi tác phẩm này trên cây piano, hoàn toàn với sự dùng ngón, các cử động bàn tay,vv. Một số nghệ sĩ piano sử dụng trí nhớ chụp ảnh (photographic memory) [lối học thuộc [bằng tương tự chụp] hình ảnh], trong đó họ nhớ như chụp ảnh bản phổ. Nếu ta lấy một bản phổ rồi gắng học thuộc từng nốt một, thì nhiệm vụ này sẽ vượt quá khả năng thực hiện ngay cả đối với các nghệ sĩ hoà nhạc. Tuy nhiên, khi bạn hiểu được bản nhạc (giai điệu, cấu trúc hoà âm, vv.), thì sự học thuộc trở thành dễ dàng với thảy mọi người ! Sự này được giải thích ở Phần III.6, nơi bạn sẽ gặp các thảo luận chi tiết hơn về cách học thuộc. Tôi thích cách học thuộc bằng bàn phím hơn cách học thuộc bằng hình ảnh, bởi nó giúp bạn tìm thấy các nốt trên piano mà không phải “đọc” bản nhạc trong đầu bạn. Hãy học thuộc từng phần mà bạn đang tập vì kỹ thuật trong khi bạn đang lặp lại chúng rất nhiều lần trong các phân khúc nhỏ, HS. Các quy trình cho sự học thuộc lòng về cơ bản là hệt như các quy trình cho sự học thụ đắc kỹ thuật. Ví dụ, sự học thuộc nên bắt đầu HS, các đoạn khó được học trước,vv. Nếu bạn học thuộc lúc muộn hơn, bạn sẽ phải lặp lại cũng quy trình đó. Cảm giác như việc đi trọn cùng một quy trình lần thứ hai sẽ đơn giản hơn. Điều này không đúng. Học thuộc là một nhiệm vụ phức tạp (ngay cả sau khi bạn có thể chơi tốt tác phẩm); vì vậy, các nhạc sinh mà gắng học thuộc một tác phẩm chỉ sau khi đã tập tốt nó sẽ, hoặc là từ bỏ hoặc vĩnh viễn không thể học thuộc nó hoàn chỉnh. Điều này dễ hiểu, nỗ lực đòi hỏi để học thuộc có thể nhanh chóng giảm đi một khi bạn đã có thể chơi bản nhạc đó rồi.
Hai yếu tố đầu tiên cần thuộc là nhịp (time signature (see III.1.b) và bộ khoá (key signature) (xem III.5.d). Cần thuộc Nhịp là điều dễ hiểu, vì nó giúp bạn chơi đúng tiết tấu. Cần thuộc bộ khoá (bao nhiêu dấu thăng hoặc giáng) vì nó cho bạn biết đúng khoá [key] (âm giai) của tác phẩm đó là gì (C-major, vv.). Khoá [key] này là âm thể chính mà quanh nó soạn nhạc gia sử dụng các tiến trình hòa âm để thay đổi các khoá. Hầu hết các soạn nhạc gia khởi đầu và kết thúc bằng âm thể chính và các hoà âm nói chung phát triển theo vòng quãng năm (circle of fifths) (xem Chương 2, 2.b). Bản Fur Elise có bộ khoá không thăng không giáng, nên nó chủ âm của nó hoặc là C major hoặc là A minor. Bởi nó nghe có phần sầu muộn, ta ngờ nó là A minor. Hai ô nhịp đầu tiên của nó nghe tựa một fanfare mà giới thiệu nhạc đề thứ nhất, do đó phần chính của nhạc đề là ở ô nhịp 3, mà khởi bằng nốt A, chủ âm của A minor! Thêm vào đó, hợp âm kết của bài cũng trên âm chủ của A minor. Vậy khả năng nó là A minor. Nốt có dấu hoá duy nhất của âm giai A minor là G# (xem bảng1.III.5b), mà ta thấy ở ô nhịp 4; do vậy ta kết luận nó là A minor. Khi bạn hiểu các chi tiết này, bạn có thể thực sự thuộc lòng nó. Giờ quay lại Nhịp, [ở Fur Elise] nó là 3/8; ba phách một ô nhịp, một phách bằng một móc đơn. Như vậy nó mang cấu trúc của một bản Valse song về nhạc điệu, nó không thể chơi như một vũ khúc mà phải mượt mà hơn nhiều bởi nó thì lãng mạn một cách u buồn và day dứt. Nhịp này [là 3/8] cho ta biết các ô nhịp như ô nhịp 3 không được phép chơi như hai liên ba [triplet] vì nó chứa 3 phách. Tuy nhiên, không cần phải quá nhấn mạnh phách thứ nhất của mỗi ô nhịp như một Valse Vienna (Viennese Waltz). Nhịp hiển nhiên là hữu ích cho việc chơi một cách có nhạc cảm và chính xác. Không có Nhịp, bạn có thể dễ dàng hình thành các thói quen chơi sai tiết tấu mà sẽ khiến lối chơi của bạn nghe rất nghiệp dư.
Một khi các nhạc sinh phát triển tập quán luyện tập -học thuộc [đồng lúc] mà tiện lợi cho họ, thì hầu hết họ sẽ thấy rằng việc tập và học thuộc cùng nhau chiếm thời gian ít hơn là việc chỉ tập, đối với các đoạn khó. Sở dĩ như vậy là vì bạn loại bỏ được quá trình nhìn bản nhạc, diễn dịch nó, và chuyển các chỉ dẫn của nó từ mắt sang não rồi sang hai bàn tay. Những gì bạn thuộc lòng khi trẻ (độ trước tuổi 20) thì hầu như không bao giờ bị quên. Đó là lý do vì sao điều rất quan trọng là cần học các phương pháp thụ đắc nhanh các kỹ thuật và học thuộc tối đa các tác phẩm bạn có thể trước khi bạn tới lứa tuổi lớn hơn. Sẽ là dễ dàng hơn việc thuộc cái gì đó nếu bạn có thể chơi nó nhanh; do đó, nếu bạn gặp khó khăn khi học thuộc nó lúc ban đầu ở tốc độ chậm, chớ lo, nó sẽ trở nên dễ dàng hơn khi bạn tăng tốc nó.
Cách duy nhất để học thuộc tốt là học cách Chơi [piano] trong đầu/ tưởng tượng [Mental Play (MP)]. Thực tế, MP là cái mục tiêu hợp lý và tối hậu của tất cả những phương pháp tập luyện này mà chúng ta đang thảo luận bởi vì chỉ riêng kỹ thuật thôi sẽ không thể giúp bạn trình diễn một cách hoàn mỹ, giàu nhạc tính, và không bị căng thẳng. [ Xem mục III.6.j để thêm nhiều chi tiết về MP]. Với MP, bạn học cách chơi piano trong đầu bạn, không hề có cây đàn cạnh bên, hoàn toàn với ngón chính xác và quan niệm của bạn về sự bạn muốn bản nhạc nào đó nghe sẽ thế nào. Bạn có thể dùng trí nhớ/sự thuộc lòng bàn phím hoặc trí nhớ/sự thuộc lòng hình ảnh cho MP, nhưng tôi khuyên nên dùng trí nhớ/sự thuộc lòng bàn phím cho những người mới học vì nó hiệu quả; với những người chơi cao hơn, trí nhớ/sự thuộc lòng bàn phím và trí nhớ/sự thuộc lòng hình ảnh là như nhau, bởi khi bạn có thể làm cái này, cái kia sẽ tự động theo sau. Hễ khi nào bạn thuộc lòng được một đoạn nhỏ, hãy nhắm mắt lại và xem liệu bạn có thể chơi nó trong đầu mà không cần chơi nó trên cây piano không.
Một khi bạn đã thuộc lòng trọn một tác phẩm HS, bạn cũng sẽ có thể chơi toàn bộ bản HS trong đầu. Đây là lúc để phân tích cấu trúc bản nhạc, cách nó được tổ chức và cách các nhạc đề của nó phát triển. Qua rèn luyện, bạn sẽ thấy rằng nó chỉ đòi hỏi một sự đầu tư nhỏ về thời giờ để thụ đắc MP. Tuyệt hơn hết, bạn cũng sẽ phát hiện rằng một khi MP đã được xây dựng một cách vững chắc, thì trí nhớ của bạn tốt hết mực khả dĩ; bạn sẽ có được sự tự tin rằng bạn sẽ có khả năng chơi mà không mắc các lỗi nhầm, những điểm trượt trí nhớ,vv, và sẽ có thể tập trung toàn bộ vào bản nhạc. MP cũng giúp ích cho kỹ thuật; ví dụ, sẽ dễ dàng thêm nhiều để chơi ở tốc độ nhanh sau khi bạn có thể chơi nó trong đầu ở tốc độ đó; rất thường khi, sự bất lực trong chơi nhanh khởi nguồn từ trong não. Một tiện ích của MP là bạn có thể chơi nó bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, và có thể gia tăng đáng kể thời gian luyện tập hiệu quả của bạn.
Trí nhớ là một quy trình liên tưởng. Những người siêu trí nhớ (gồm một số nhà bác học) và tất các các nghệ sĩ piano hòa nhạc những người có thể thuộc lòng những tác phẩm kéo dài suốt nhiều giờ dựa vào các thuật toán (algorithm) mà với chúng họ liên kết trí nhớ của họ (cho dù họ ý thức nó hay không). Các nhạc sĩ đặc biệt may mắn ở khía cạnh này bởi âm nhạc thì chính xác như một thuật toán. Tuy nhiên, “mẹo nhớ” này của sự dùng âm nhạc như một thuật toán để ghi nhớ thì hiếm khi được chính thức dạy cho các nhạc sinh; thay vì vậy, chúng thượng được khuyên là duy trì lặp đi lặp lại “cho tới khi bản nhạc nằm trong lòng bàn tay”, mà chính là một trong những phương pháp để học thuộc tồi nhất, bởi, như ta sẽ thấy trong phần III.6.d, những hậu quả nhờ sự lặp lại thành “trí nhớ bàn tay ” là một loại trí nhớ giả mà có dẫn tới nhiều rắc rồi, chẳng hạn những điểm trượt trí nhớ. Với MP, bạn liên kết bản nhạc trong đầu bạn với cách bạn chơi nó trên cây piano. Rất quan trọng việc luyện MP mà không đang chơi piano bởi vì bạn có thể thụ đắc “trí nhớ âm thanh” (hệt như bạn có thể thụ đắc “trí nhớ bàn tay ”) và dùng âm thanh của cây piano như một điểm tựa để hồi tưởng, và trí nhớ âm thanh có thể cũng có thể gây ra cùng những rắc rối liên quan tới trí nhớ bàn tay.
Tại sao trí nhớ và MP quan trọng đến thế ? Chúng không chỉ giải quyết các vấn đề thực tiễn về kỹ thuật và trình diễn mà còn làm tăng tiến nghệ thuật âm nhạc của bạn và tăng trí thông minh của bạn. Bạn có thể tăng tốc một máy tính bằng cách tăng thêm bộ nhớ; tương tự, bạn có thể gia tăng trí thông minh tích cực của bạn bằng sự cái thiện trí nhớ của bạn. Trong thực tế, một trong những dấu hiệu của sự suy hỏng đầu óc, chảng hạn của người mắc chứng Alzheimer, chính là sự mất trí nhớ. Giờ thì rõ ràng rằng nhiều trong số “kỳ công huyền diệu” của các nhạc sĩ vĩ đại chẳng hạn Mozart thì đơn giản chính là các phó phẩm của MP mạnh, và rằng những kỹ năng như thế có thể học được. [Xem thêm về MP ở mục III.6j.]
Soạn giả: Chuan C. Chang (nhà khoa học)
Dịch giả: Nhật Nguyệt (thi sĩ)
Chia sẻ, sao chép vui lòng ghi rõ nguồn bài viết thuộc bản quyền Harmony Co., Ltd
>>Xem tiếp:
- Tốc độ, Chọn tốc độ luyện tập
- Cách Thư giãn/thả lỏng - How to Relax
- Sự Cải thiện hậu luyện tập-Post Practice Improvement (PPI)
- Những nguy hiểm của sự chơi chậm - Các cạm bẫy của Phương pháp bản năng (Intuitive Method)
- Sự quan trọng của Chơi Chậm
- Sự phân ngón - Fingering
- (P8) Phương pháp luyện tập đàn piano - Nguyên lý và nguyên tắc nền tảng
- (P9) Phương pháp luyện tập đàn piano - Nguyên lý và nguyên tắc nền tảng
- (P10) Phương pháp luyện tập đàn piano - Nguyên lý và nguyên tắc nền tảng
- (P11) Phương pháp luyện tập đàn piano - Nguyên lý và nguyên tắc nền tảng