-
-
-
Tổng tiền thanh toán:
-
(P18) Phương pháp luyện tập đàn piano - Nguyên lý và nguyên tắc nền tảng
Đăng bởi Admin Harmony
Thứ Wed,
07/07/2021
24. Pedal hãm âm (Soft Pedal): Chỉnh giọng búa [Hammer Voicing], Phương diện Vật lý của Âm đàn piano [Physics of the Piano Sound]
Đại Dương cầm: Pedal hãm âm được dùng để chuyển tình trạng [mood] của âm thanh từ âm kích phát (percussive) sang âm thanh nghe dịu và nhã hơn. Không nên dùng pedal hãm âm chỉ để có một âm khẽ hơn, bởi nó cũng sẽ làm thay đổi âm sắc [timbre]. Để chơi thật khẽ [pianissimo], thì bạn cần phải học cách chơi khẽ [thay vì nhấn pedal hãm âm]. Bạn có thể tạo ra những âm lớn với pedal hãm âm đang được nhấn. Một điều khó với pedal hãm âm là rằng nó (una corda, hay chính xác hơn là due corda cho đại dương cầm hiện đại) thì thông thường không được ghi ký hiệu, vì vậy quyền quyết định dùng nó thường dành cho cá nhân nghệ sĩ piano. Với các piano đứng, nó chủ yếu làm giảm âm lượng. Pedal hãm âm ở hầu hết các piano đứng có một hiệu ứng không đáng kể về thay đổi âm sắc. Không như đại dương cầm, các các piano đứng không thể phát ra các âm lớn nếu pedal hãm âm đang được nhấn.
Nhiều người chơi piano không hiểu không hiểu tầm quan trọng của việc chỉnh giọng búa (hammer voicing) thích đáng để cho pedal hãm âm có thể đạt hiệu quả. Nếu bạn có ý dùng pedal hãm âm để chơi khẽ, hoặc nếu nó là dễ dàng hơn một cách rõ rệt khi chơi pianissimo với cây đại dương cầm mở nắp, thì búa nhất thiết cần được chỉnh giọng. (Xem mục "Chỉnh giọng" ở Chương Hai, Phần 7). Với các búa đã được chỉnh giọng thích đáng, bạn sẽ có thể điều khiển sự chơi nhỏ ở bất cứ mức nào bạn muốn mà không dùng pedal hãm âm. Với các búa đã bị hỏng, mòn, chai, thì việc chơi khẽ là không thể và pedal hãm âm có kém hiệu quả hơn trong thay đổi giọng đàn. Trong hầu hết trường hợp, các phẩm chất gốc của búa có thể được phục hồi bằng việc chỉnh giọng (tái tạo hình dạng đầu, châm kim,vv.). Bộ cơ cũng phải được chỉnh tốt, với khoảng cách gõ búa (let-off ) được chỉnh tối thiểu, để có thể chơi PPP.
Việc sử dụng pedal hãm âm còn gây nhiều tranh cãi bởi nhiều người chơi piano không hiểu cách thức mà nó hoạt động. Ví dụ, nhiều người dùng nó để chơi pianissimo, mà là một cách dùng sai. Như đề cập ở chương hai, phần 7, năng lượng chuyển từ búa sang dây là hiệu quả nhất lúc va chạm, trước khi sợi dây bắt đầu rung. Một búa mà đã bị chai sẽ chuyển năng lượng của nó [vào dây đàn] trong một quãng thời gian cực ngắn lúc va chạm rồi búa tức thì bật rời khỏi dây. Hiệu quả cao của sự chuyền năng lượng gây ấn tượng một bộ cơ rất nhẹ [light action]. Đó là lý do tại sao có những cây đại dương cầm cũ gây cảm giác nhẹ tợ lông hồng. Những búa mềm trên cùng cây đàn đó (mà các cơ phận khác giữ nguyên không đổi), sẽ làm bộ cơ cảm giác nặng hơn. Đây là bởi vì, với điểm va chạm của búa mềm hơn, thì nó lưu lại trên dây lâu hơn nhiều, và sợi dây sẽ được kéo ra khỏi vị trí ban đầu của nó trước khi tất cả năng lượng búa được chuyển sang sợi dây. Ở tình huống này, sự chuyền năng lượng sẽ kém hiệu quả hơn (Chương Hai, Phần 7) nên người chơi piano phải nhấn mạnh hơn để tạo cùng một âm lượng. Do vậy việc chỉnh giọng búa có thể hiệu quả hơn trong sự thay đổi trọng lượng phím biểu kiến [apparent key weight] hơn là các trọng lượng đối trọng [lead weights]. Hiển nhiên, trọng lượng phím có hiệu lực thì được điều khiển một phần bởi lực cần nhấn phím, vì vậy việc tạo ra một âm lượng nhất định cũng lệ thuộc vào lực nhấn. Người chơi piano không biết nhân tố nào (các trọng lượng đối trọng hay búa mềm) sẽ ảnh hưởng tới trọng lượng phím có hiệu lực. Chuyên gia kỹ thuật piano phải hài hòa giữa việc chỉnh giọng một búa đủ mềm để tạo một âm thanh êm tai và đủ cứng để tạo một âm thanh đầy đủ. Với tất cả các đàn piano ngoại trừ những cây piano chất lượng cao nhất, thì búa đều cần thiên về phía cứng để tạo được âm thanh đầy đủ và làm cho bộ cơ có cảm giác nhanh nhẹn, điều này khiến các piano như vậy khó thể chơi nhẹ. Điều này có thể "biện minh" cho sự sử dụng pedal hãm tiếng ở những nơi nó nhẽ ra không nên được sử dụng. Các chủ đàn piano mà hờ hững việc chỉnh giọng búa có thể làm công việc của những người lên dây đàn trở nên thành khó khăn, bởi, sau khi các búa đã được chỉnh giọng đúng, người chủ đàn sẽ than phiền rằng bộ cơ bấy giờ quá nặng khi chơi. Trong thực tế, chủ đàn bấy lâu đã quen chơi một bộ cơ nhẹ tựa lông hồng và chưa từng được học cách chơi với một lực thật sự để tạo ra một âm đàn piano lộng lẫy.
Ở hầu hết các piano đứng, pedal hãm âm khiến tất cả búa tiến sát các dây hơn, bằng cách đó làm hạn chế chuyển động của búa và làm giảm âm lượng. Không như ở các đại dương cầm, những âm lớn không thể được tạo ra ở một piano đứng khi pedal hãm âm đang được nhấn. Hiện đã có những cây piano đứng cao cấp trong đó pedal hãm âm hoạt động tương tự như của các đại dương cầm.
Ở các đại dương cầm hiện đại, pedal hãm âm làm cho toàn bộ bộ cơ (gồm tất cả các búa) dịch sang bên phải để cho các búa chệch khỏi một dây trong một bộ-3-dây. Bằng cách đó các búa chỉ gõ vào hai dây, gây ra một sự thay đổi âm sắc, như được giải thích bên dưới. Quảng cách xê dịch của bộ cơ khi này chính xác là bằng phân nửa quãng cách giữa các dây kế cận và nhóm 3 dây; như thế hai dây hoạt động sẽ được va vào những phần ít được sử dụng của búa giữa các rãnh dây, tạo nên một âm càng thêm thanh nhã. Chuyển động ngang này phải không được chuyển quãng cách một dây bởi như thế búa sẽ rơi vào các rãnh tạo bởi các dây kế cận. Bởi các quãng cách dây và quãng đường dịch chuyển bộ cơ không thể được điều khiển một cách đủ chính xác, sự này sẽ làm cho một số búa rơi chính xác vào các rãnh trong khi các búa khác bị trượt, tạo nên âm thanh không đồng đều.
Tại sao có sự thay đổi âm sắc khi hai dây được gõ thay vì ba? Ở đây, âm sắc được điều khiển bởi tối thiểu 4 yếu tố: (1) sự tồn tại của sợi dây không được gõ, (2) tỉ lệ âm phát tức thì-/ âm phát sau [prompt-/after-sound ratio], (3) hàm lượng các hoạ âm [harmonic content] và (4) sự phân cực rung động [vibrational polarization] của các dây. Hãy xem xét chi tiết các yếu tố này.
Sợi dây không được gõ hoạt động như một bể trữ trong đó hai dây kia đổ năng lượng của chúng vào và tạo nên nhiều hiệu ứng mới. Bởi sự rung của sợi dây thứ ba này là nghịch pha [anti-phase] với các dây được gõ, nó làm giảm cường độ của âm thanh phát tức thời lúc khởi sinh [initial prompt-sound] (xem bên dưới) và đồng thời, kích thích các cách thức rung mà khác với các thức rung khi cả ba dây cùng được gõ đồng lúc. Đây là lý do tại sao các pedal hãm âm ở các đàn đứng không hoạt động tốt bằng -- [vì] tất cả các dây được gõ ngay cả khi pedal hãm âm được nhấn, và vì vậy âm sắc không thể thay đổi.
Cây đàn piano tạo ra một âm thanh phát tức thời lúc khởi sinh [initial prompt-sound] và một dư âm ngân dài [sustaining after-sound]; xem các bài báo “Scientific American” và “Five Lectures” đề cập ở phần Tài liệu tham khảo để có thêm các chi tiết về các đề tài được thảo luận ở đoạn này. Không như hình lược giản về các tần số cơ bản và họa âm mà ta dùng khi lên dây đàn piano, những sự rung động thực tế của sợi dây bao gồm một chuỗi điểm dao động phức tạp lệ thuộc vào thời gian [complex time dependent series of events] mà tới nay vẫn chưa được hiểu hoàn toàn. Trong những tình huống như vậy, các dữ liệu thực tế từ những đàn piano hiện nay thì có nhiều giá trị thực tiễn hơn, song các dữ liệu đó lại được bảo mật bởi các nhà chế tạo đàn. Vì vậy, tôi tóm lược ở đây một số kiến thức tổng quát về vật lý của âm thanh đàn piano. Các dao động của sợi dây có thể bị phân cực [polarized], hoặc song song với bảng cộng hưởng [ soundboard], hoặc vuông góc với nó. Khi các dây được gõ các sóng phân cực lan truyền/chạy vuông góc [vertically polarized traveling waves] được sản ra mà chuyển động rời xa búa ở cả hai hướng, hướng tới các ốc điều dây agraffe (hoặc capo bar) và hướng tới cầu/ngựa dây [bridge]. Các sóng này chuyển động nhanh tới mực chúng phản xạ ngược lại từ cả hai cực của các dây và đi ngang qua búa hằng trăm lần trước khi búa nảy rời khỏi các dây; trong thực tế, chính các sóng này phản xạ lại búa [throw the hammer back]. Các sóng phân cực lan truyền/chạy theo phương ngang [Horizontally polarized waves] được sản sinh từ các sóng phương đứng [vertical waves] bởi cây đàn piano thì không cân xứng [symmetric]. Các sóng lan truyền/chạy này phân rã vào trong [decay] các sóng đứng/sóng dừng [standing waves] chứa các hoạ âm (gồm các hoạ âm căn bản) bởi vì các sóng phương đứng là “các kiểu dao động chuẩn [normal vibration modes] mà truyền năng lượng một cách chậm tới bảng cộng hưởng và vì vậy mà chúng tồn tại lâu. Tuy nhiên, từ lúc mới khởi đầu, khái niệm về các âm căn bản và hoạ âm vẫn duy trì hiệu lực bởi các hệ số [coefficient] Fourier của các tần số căn bản và hoạ âm là luôn luôn lớn, ngay cả cho các sóng lan truyền/chạy [traveling wave]. Điều này là dễ hiểu bởi các cực của các dây không di chuyển, nhất là ở các đàn piano cấu trúc tốt, lớn và nặng. Nói cách khác, hầu hết các độ dài sóng [wavelength] mà chứa các nút sóng [node] (các điểm mà chuyển động bằng zero) ở cả hai cực dây được sản sinh khi các cực này được cố định. Điều này lý giải tại sao, bất chấp các sóng lan truyền, những thợ chỉnh dây có thể chỉnh chính xác chỉ sử dụng các tần số căn bản và hoạ âm. Các sóng phân cực theo phương ngang truyền năng lượng tới bảng cộng hưởng hiệu quả hơn các sóng phân cực theo phương đứng và do vậy sản sinh một âm lớn hơn nhưng chóng bị phân rã hơn, và tạo ra âm tức thời [prompt sound]. Các sóng dừng/đứng phân cực theo phương ngang thì tạo ra âm sau [after-sound] mà làm cho cây piano có tiếng ngân dài của nó. Khi pedal hãm âm được nhấn, chỉ hai dây có thể tạo ra âm -tức- thời nhưng cuối cùng, tất cả ba dây đều góp phần vào dư âm. Vì vậy, tỉ lệ âm tức thời/dư âm thì nhỏ hơn 3 dây và âm này thì ít va đập hơn [percussive] với pedal hãm âm.
*Agraffe là những con đinh ốc bằng đồng giúp chia khoảng cách và cân bằng các dây khi chúng khởi đi từ các chốt pin. Các Agraffe được vặn vào trong khung (frame).
Hàm lượng hoạ âm cũng khác vì năng lượng của búa được truyền tới chỉ 2 dây thay vì 3, điều này tương tự như sự gõ vào dây bằng một búa nặng hơn, và như ta biết thì các búa nặng hơn tạo ra những âm cơ bản mạnh hơn. Các sự phân cực của các dây cũng thay đổi với pedal hãm âm bởi sợi dây thứ ba sẽ bị phân cực theo phương ngang nhiều hơn, điều góp phần làm cho âm thanh nghe thanh nhã hơn.
Sự hiểu biết trên giúp ta sử dụng pedal hãm âm thích đáng. Nếu pedal được nhấn trước khi một nốt được chơi, thì các sóng lan truyền lệ thuộc thời gian ban đầu [initial time dependent traveling waves] sẽ kích thích tất cả các dây, tạo một gầm nhẹ kèm theo [soft background roar]. Nghĩa là, trong âm tức thời, các hệ số phi-hoạ âm Fourier là khác zero. Nếu bạn đặt ngón tay lên bất kỳ dây nào, bạn có thể cảm thấy nó dao động. Tuy nhiên, các dây quãng tám và hoà âm [harmonic strings - tức cách các quãng khác thuộc hoà âm nốt đó] sẽ dao động với biên độ cao hơn các dây nghịch âm [dissonant strings], hiện tượng này là một hậu quả của các hệ số Fourier lớn hơn cho các hoạ âm. Nhờ vậy cây piano không chỉ bẫy các hoạ âm một cách chọn lọc, mà còn tạo sinh chúng một cách chọn lọc. Còn nếu pedal được nhấn sau khi một nốt được gõ, thì sẽ có sự dao động cộng hưởng ở các dây quãng tám và hoà âm, còn tất cả các dây khác sẽ hầu như hoàn toàn yên lặng bởi vì các sóng dừng sẽ chỉ chứa các hoạ âm thuần [pure harmonics]. Sự này tạo ra một nốt ngân dài trong trẻo. Bài học ở đây là rằng, nói chung, pedal nên được nhấn ngay sau khi ta gõ một nốt, chứ không phải nhấn trước khi gõ nốt, nhằm tránh các nghịch âm. Đây là một tập quán tốt cần đào luyện.
Sự nhấn một phần pedal hãm âm chỉ có tác động ở đàn piano đứng; nhưng liệu việc một nửa pedal hãm âm ở đại dương cầm có tác dụng không? [Ở cây đại dương cầm] Ngay cả một số nghệ sĩ piano trình độ cao cũng nghĩ rằng nếu một sự nhấn trọn pedal hãm âm tạo ra một hiệu ứng nhất định, thì một sự nhấn pedal hãm âm một phần sẽ cho một hiệu ứng một phần, điều này là sai. Nếu bạn nhấn pedal hãm âm một phần, bạn dĩ nhiên sẽ có một âm mới lạ. Không có lý do gì mà một người chơi piano lại không được phép làm điều đó, và nếu nó tạo ra một hiệu ứng mới thú vị mà người chơi piano đó thích, thì chẳng có gì sai trái với điều đó cả. Tuy nhiên, lối chơi này thì không được chủ định trong thiết kế cây đàn piano và tôi không biết một soạn nhạc gia nào đã sáng tác cho lối nhấn pedal hãm âm một phần trên cây đại dương cầm, nhất là bởi nó không đồng tác dụng ở các đàn piano khác nhau, và các nốt khác nhau ở cùng một cây piano. Sự sử dụng mở rộng các cú nhấn pedal hãm âm một phần trên cây đại dương cầm sẽ khiến một số dây cạo đi một bên của búa, do vậy làm bộ cơ lệch chuẩn. [sĩstem out of regulation]. Ngoài ra, điều không thể cho một chuyên gia kỹ thuật piano là canh thẳng hàng [align] tất cả các búa và các dây chính xác tới mức mà sợi dây thứ ba sẽ chệch khỏi búa khi cùng cú nhấn pedal đó chuyển động cho tất cả các nốt-3-dây. Do vậy sự nhấn pedal hãm âm một phần sẽ không đồng đều, và khác nhau giữa cây piano này với cây piano khác. Vì vậy, trừ phi bạn đã trải nghiệm và muốn tạo ra một hiệu ứng mới nào đó khác lạ và không thể tái hiện, thì lối nhấn pedal hãm âm một nửa [half-pedaling] là không được khuyến khích cho pedal hãm âm trên một cây đại dương cầm. Tuy nhiên, nhiều giai thoại cho thấy rằng sự sử dụng pedal hãm âm một phần trên một cây đại dương cầm thực tế xảy ra, hầu như luôn luôn là bởi sự không hay biết về phía nghệ sĩ piano về cách nó tác động. Cách duy nhất để sử dụng lối pedal hãm âm một phần với các kết quả có thể tái hiện là một cú nhấn rất nhẹ pedal hãm âm, trong trường hợp đó tất cả các dây sẽ đập vào các bên hông của các rãnh ở búa [grooves in the hammer]. Ngay cả kế sách này cũng chẳng thật sự tác dụng, bởi nó sẽ tác động chỉ với những nốt-3-dây, gây ra một chuyển giọng khó nghe từ các đoạn nốt-2-dây và đoạn nốt-3-dây.
Ở các đoạn dây kép và dây đơn, các dây có đường kính lớn hơn nhiều, do đó khi bộ cơ dịch chuyển sang một bên, các dây này đâp vào các thành hông của các rãnh, do đó gây cho chúng một chuyển động theo phương ngang và làm gia tăng dư-âm [after-sound] bằng sự gia tăng các dao động dây phân cực phương ngang. Do thế sự thay đổi âm sắc là tương tự với ở đoạn 3-dây. Kỹ xảo này mới cực kỳ tài tình sao!
Tóm lại, cái tên pedal hãm âm là một cái tên sai cho một đại dương cầm. Tác động chính của nó [ở đại dương cầm] là nhằm thay đổi âm sắc của một nốt. Nếu bạn chơi một âm lớn với pedal hãm âm được nhấn, nó sẽ kêu lớn hầu như ngang với khi bạn không nhấn pedal hãm âm. Điều này là bởi bạn đã truyền hầu như cùng một lượng năng lượng cho việc tạo âm thanh đó. Mặt khác, việc chơi khẽ trên hầu hết các đại dương cầm sẽ dễ dàng hơn khi ta sử dụng pedal hãm âm, bởi vì các dây sẽ đập vào những phần ít được sử dụng, mềm hơn của các búa. Miễn là cây piano của bạn được chỉnh tốt và các búa được chỉnh giọng phù hợp, thì bạn sẽ có thể chơi nhỏ thế nào tùy thích mà không cần sử dụng pedal hãm âm. Một cú nhấn pedal hãm âm một phần sẽ tạo ra những hiệu ứng không thể tiên liệu, không đồng đều và không nên dùng cho một cây đại dương cầm cơ. Một cú nhấn pedal hãm âm một phần là có tác động trên hầu hết piano đứng và tất cả piano điện.
Soạn giả: Chuan C. Chang (nhà khoa học)
Dịch giả: Nhật Nguyệt (thi sĩ)
Chia sẻ, sao chép vui lòng ghi rõ nguồn bài viết thuộc bản quyền Harmony Co., Ltd
>>Xem tiếp:
- Tay trái yếu; Dùng Tay này Dạy Tay kia
- Xây dựng Sức bền (Endurance), Sự thở
- Những tập quán xấu: Kẻ thù xấu nhất của một nghệ sĩ piano
- Pedal ngân tiếng -Damper Pedal
- Pedal hãm âm (Soft Pedal): Chỉnh giọng búa [Hammer Voicing], Phương diện Vật lý của Âm đàn piano [Physics of the Piano Sound]
- Chơi-Hai tay [Hands together (HT)] và Chơi đàn trong đầu [Mental Play]
- Tóm tắt
- (P19) Phương pháp luyện tập đàn piano - Nguyên lý và nguyên tắc nền tảng
- (P20) Phương pháp luyện tập đàn piano - Nguyên lý và nguyên tắc nền tảng
- (P21) Phương pháp luyện tập đàn piano - Nguyên lý và nguyên tắc nền tảng
- (P22) Phương pháp luyện tập đàn piano - Nguyên lý và nguyên tắc nền tảng
- (P23) Phương pháp luyện tập đàn piano - Nguyên lý và nguyên tắc nền tảng
- (P24) Phương pháp luyện tập đàn piano - Nguyên lý và nguyên tắc nền tảng